Logo

Bí mật kinh doanh - Đối tượng sở hữu công nghiệp chưa được các doanh nghiệp quan tâm

03/04/2014

Ngày nay, khi nói đến các đối tượng sở trí tuệ, thông thường chúng ta thường nghĩ tới các đối tượng phổ biến như quyền tác giả, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu mà ít chú ý đến đối tượng thường xuyên xuất hiện trong hoạt động kinh doanh đó là “bí mật kinh doanh”.

Trong lịch sử nhân loại, bảo mật là một phần của hoạt động kinh doanh đã xuất hiện cách đây hàng ngàn năm trước. Việc bảo mật bí quyết thu hoạch tơ tằm đã giúp người Trung Quốc thu được lợi nhuận lớn trong hàng thế kỷ.

 

Ngày nay, khi nói đến các đối tượng sở trí tuệ, thông thường chúng ta thường nghĩ tới các đối tượng phổ biến như quyền tác giả, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu mà ít chú ý đến đối tượng thường xuyên xuất hiện trong hoạt động kinh doanh đó là “bí mật kinh doanh”.

 

Bí mật kinh doanh là gì?

Theo định nghĩa, bí mật kinh doanh (hay còn gọi là bí mật thương mại) là thông tin thu được từ hoạt động đầu tư tài chính, trí tuệ, chưa được bộc lộ và có khả năng sử dụng trong kinh doanh.

 

Bí mật kinh doanh là một đối tượng sở hữu công nghiệp được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó.

 

Vì sao bí mật kinh doanh ít được quan tâm?

Thứ nhất: Quyền đối với bí mật kinh doanh được xác lập mà không cần phải đăng ký;

 

Thứ hai: Các quy định pháp luật thực thi quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến bí mật kinh doanh không cụ thể;

 

Thứ ba: Các tranh chấp liên quan đến bí mật kinh doanh thường liên quan tới những bí mật mà các bên đều không muốn bộc lộ công khai ra công chúng.

 

Vì sao cần phải sử dụng bí mật kinh doanh trong doanh nghiệp?

Đây là một công cụ rẻ tiền nhất trong các đối tượng bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ khác phải đăng ký với cơ quan nhà nước, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) khi áp dụng các công cụ để bảo vệ lợi thế kinh doanh của mình. Chẳng hạn, doanh nghiệp hoàn toàn có thể tự mình bảo vệ bí mật kinh doanh của mình bằng các điều khoản “không tiết lộ thông tin” khi ký kết hợp đồng lao động với nhân viên hoặc hợp đồng kinh tế với khách hàng của mình.

 

Các quy định của pháp luật

Hiệp định TRIPS 1995 có các quy định về bảo hộ bí mật kinh doanh (undisclosed information tạm dịch là thông tin không được bộc lộ). Theo Điều 39: các nước thành viên bảo hộ thông tin không được bộc lộ đối với các hành vi sử dụng thông tin không được phép (bằng những phương thức trái với chuẩn mực thương mại thông thường), bao gồm cả việc vi phạm hợp đồng, vi phạm điều khoản bảo mật và cạnh tranh không lành mạnh. Thông tin ở đây được hiểu phải là những thông tin có khả năng tiếp cận, có giá trị do đó là bí mật, đồng thời nó được coi là đối tượng đã được áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo vệ.

 

Tương tự hiệp định TRIPS, Điều 84 Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định: Bí mật kinh doanh được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

 

1. Không phải là hiểu biết thông thường và không dễ dàng có được;

2. Khi được sử dụng trong kinh doanh sẽ tạo cho người nắm giữ bí mật kinh doanh lợi thế so với người không nắm giữ hoặc không sử dụng bí mật kinh doanh đó;

3. Được chủ sở hữu bảo mật bằng các biện pháp cần thiết để bí mật kinh doanh đó không bị bộc lộ và không dễ dàng tiếp cận được.

 

Để bảo vệ quyền đối với bí mật kinh doanh, Điều 42 đến 49 hiệp định TRIPS biện pháp có thể thực thi là khởi kiện ra toà dân sự. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật của từng quốc gia quy định về phương pháp xác định chứng cứ rất khác nhau, đồng thời các biện pháp thực thi quyền đối với bí mật kinh doanh cũng không đồng nhất.

 

Bên cạnh biện pháp dân sự khởi kiện ra toà, pháp luật Việt Nam quy định mức xử phạt hành chính đối với các hành vi xâm phạm quyền đối với các hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh từ 5 đến 15 triệu VNĐ (Điều 14.15 Nghị định 99/2013/NĐ-CP). Các hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh bao gồm:

 

1) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người kiểm soát hợp pháp (*) bí mật kinh doanh đó;

2) Bộc lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó;

3) Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, xui khiến, mua chuộc, ép buộc, dụ dỗ, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập hoặc làm bộc lộ bí mật kinh doanh;

4) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người nộp đơn theo thủ tục xin cấp phép kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan có thẩm quyền;

5) Sử dụng, bộc lộ bí mật kinh doanh dù đã biết hoặc có nghĩa vụ phải biết bí mật kinh doanh đó do người khác thu được có liên quan đến một trong các hành vi nêu trên;

6) Không thực hiện nghĩa vụ bảo mật thử nghiệm.

 

(*) Người kiểm soát hợp pháp bí mật kinh doanh bao gồm: chủ sở hữu bí mật kinh doanh, người được chuyển giao hợp pháp quyền sử dụng bí mật kinh doanh, người quản lý bí mật kinh doanh.

 

Bí mật kinh doanh - lợi thế cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Chúng ta chỉ cần so sánh việc bảo hộ sáng chế và bí mật kinh doanh sẽ thấy được tầm quan trọng của bí mật kinh doanh đối với các DNVVN. Sáng chế có thể sẽ là chìa khoá thành công của nhiều doanh nghiệp, đặc biệt khi họ tiếp cận ra thị trường thế giới. Thời gian bảo hộ độc quyền chính là giai đoạn bù đắp lại những chi phí và rủi ro trong quá trình sáng tạo. Bảo hộ theo đối tượng sáng chế bắt buộc phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và có thể sẽ mất nhiều thời gian và tiền bạc trong khi bảo hộ theo đối tượng bí mật kinh doanh không cần đăng ký. Điều quan trọng là các DNVVN không chỉ có một công cụ bảo hộ theo đối tượng sáng chế mà có thể sử dụng biện pháp có sẵn trong tay là bảo hộ dưới dạng bí mật kinh doanh cũng có thể thực hiện bảo vệ các tài sản trí tuệ của mình.

 

Quý vị quan tâm chi tiết tới lĩnh vực này, xin liên hệ Văn phòng Luật sư Phạm và Liên danh: hanoi@pham.com.vn  

 

Văn phòng Luật sư Phạm và Liên danh


Các bài viết khác