Luật SHTT sửa đổi năm 2022 không chỉ sửa đổi Điều 112. Ý kiến người thứ ba về việc cấp VBBH mà còn thêm vào Điều 112a. Phản đối đơn đăng ký sở hữu công nghiệp
Ý kiến của người thứ ba về việc cấp văn bằng bảo hộ (VBBH) đã được quy định tại Điều 112, Luật Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (được Quốc hội thông qua vào ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2006) được viết như sau:
Điều 112. Ý kiến của người thứ ba về việc cấp văn bằng bảo hộ
Kể từ ngày đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp đến trước ngày ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ, bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền có ý kiến với cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp về việc cấp hoặc không cấp văn bằng bảo hộ đối với đơn đó. Ý kiến phải được lập thành văn bản kèm theo các tài liệu hoặc trích dẫn nguồn thông tin để chứng minh.
Thực tế cho thấy, hầu hết ý kiến của người thứ ba gửi tới Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) là phản đối một phần hoặc toàn bộ nội dung của một đơn xin xác lập quyền sở hữu công nghiệp khi đơn này được Cục SHTT công bố. Bởi vậy không ít người cho rằng kiến của người thứ ba chính là phản đối đơn. Tuy nhiên nếu là phản đối đơn – tức là một thủ tục hành chính - thì đòi hỏi phải được quy định chặt chẽ. Tiếc rằng Điều 112 nói trên không đáp ứng yêu cầu này, gây khó khăn cho các bên liên quan.
Bởi vậy, khi Luật SHTT được sửa đổi, bổ sung lần thứ ba vào năm 2022 (gọi tắt là Luật SHTT sửa đổi 2022), có hiệu lực từ ngày 01/01/2023, Điều 112 không chỉ được sửa đổi mà còn được đưa thêm vào Điều 112.a. để xác định rõ nội hàm nhằm nâng cao hiệu lực pháp lý và tính khả thi. Cụ thể như sau:
Điều 112 . Ý kiến của người thứ ba về việc cấp văn bằng bảo hộ
Kể từ ngày đơn đăng ký sở hữu công nghiệp được công bố trên Công báo sở hữu công nghiệp đến trước ngày ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ, bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền có ý kiến với cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp về việc cấp hoặc không cấp văn bằng bảo hộ đối với đơn đó. Ý kiến phải được lập thành văn bản kèm theo tài liệu hoặc trích dẫn nguồn thông tin để chứng minh.
Điều 112a. Phản đối đơn đăng ký sở hữu công nghiệp
1. Trước ngày ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ, trong các thời hạn sau đây, bất kỳ người thứ ba nào cũng có quyền phản đối việc cấp văn bằng bảo hộ:
a) Chín tháng kể từ ngày đơn đăng ký sáng chế được công bố;
b) Bốn tháng kể từ ngày đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp được công bố;
c) Năm tháng kể từ ngày đơn đăng ký nhãn hiệu được công bố;
d) Ba tháng kể từ ngày đơn đăng ký chỉ dẫn địa lý được công bố.
2. Ý kiến phản đối quy định tại khoản 1 Điều này phải được lập thành văn bản kèm theo tài liệu hoặc trích dẫn nguồn thông tin để chứng minh và phải nộp phí, lệ phí.
3. Cơ quan quản lý nhà nước về quyền sở hữu công nghiệp có trách nhiệm xử lý ý kiến phản đối quy định tại khoản 2 Điều này theo trình tự, thủ tục do Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định.
Với những sửa đổi và bổ sung như trên những vấn đề dưới đây đã được làm rõ:
Việc bổ sung thêm đoạn “Văn bản nêu ý kiến của người thứ ba được coi là một nguồn thông tin tham khảo cho quá trình xử lý đơn đăng ký sở hữu công nghiệp” khẳng định đây chỉ được coi là nguồn tài liệu tham khảo.
Vì coi là tài liệu tham khảo nên cách thức nộp và xử lý như sau:
- “Ý kiến của người thứ ba” có thể nộp bất cứ lúc nào trong khoảng thời gian từ khi đơn được công bố đến trước khi Cục SHTT ra quyết định cấp VBBH;
- Việc nộp ý kiến không không đòi hỏi phải nộp phí; và
- Cục SHTT tiếp nhận ý kiến (và các tài liệu kèm theo, nếu có), sử dụng chúng theo ý của mình và không có nghĩa vụ phải trả lời.
Thực tế cho thấy từ khi Điều 112 sửa đổi được áp dụng số lượng ý kiến người thứ ba nộp tới Cục SHTT ít hơn nhiều so với trước, giảm đáng kể áp lực công việc cho các thẩm định viên Cục SHTT
Điều 112.a làm rõ phản đối là một thủ tục nhằm giúp cơ quan quản lý nhà nước về SHTT, cụ thể là Cục SHTT, có thêm thông tin, tư liệu, chứng cứ cần thiết để làm cơ sở cho việc thẩm định đơn đăng ký một cách công bằng, minh bạch, giảm thiểu tranh chấp tiềm ẩn có thể nảy sinh sau khi cấp văn bằng bảo hộ. Thông thường, thủ tục này sẽ được bên thứ ba thực hiện khi họ có sở pháp lý vững chắc để chứng minh việc cấp văn bằng bảo hộ vi phạm các quy định của Luật SHTT hoặc có thể xung đột quyền và lợi ích của họ. Cục SHTT sẽ xem xét đơn phản đối, trên cơ sở đó có thể từ chối cấp văn bằng bảo hộ.
Những điểm chính của thủ tục phản đối đơn được tóm tắt như sau:
- Thời hạn nộp phản đối: Quy định rõ - 5 tháng đối với đơn nhãn hiệu, 9 tháng đối với đơn sáng chế, 4 tháng đối với đơn kiểu dáng công nghiệp và 3 tháng đối với đơn chỉ dẫn địa lý sau khi đơn được công bố;
- Xử phản đối: Cục SHTT tiếp nhận, ghi sổ (cấp số đơn) và xử lý đơn dựa trên các chứng cứ và lập luận mà các bên cung cấp;
- Thông báo: Cục SHTT có thể thông báo cho người nộp đơn và bên thứ ba, sau đó ấn định thời hạn để họ trả lời bằng văn bản;
- Lệ phí nộp đơn: Đơn phản đối phải nộp phí, lệ phí theo quy định.
Trường hợp Đơn phản đối không có cơ sở: Cục SHTT không có nghĩa vụ phải thông báo cho người nộp đơn, nhưng phải thông báo cho bên thứ ba về việc từ chối xem xét phản đối và nêu rõ lý do; và
Cuối cùng, cần lưu ý thêm rằng Điều 112 và 112a nói trên chỉ áp dụng cho đơn đăng ký nhãn hiệu theo thể thức quốc gia. Việc xử lý Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam được quy định tại Điều 27 của Nghị định Chính phủ số 65/2023/NĐ-CP[1]. Theo đó, sau khi nhận được thông báo của Văn phòng quốc tế về Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam, Cục SHTT tiến hành thẩm định nội dung đơn. Kể từ ngày Đơn Madrid được Văn phòng quốc tế công bố trên Công báo đến trước ngày ra Cục SHTT ra quyết định chấp nhận bảo hộ, hoặc kết thúc 12 tháng kể từ ngày Văn phòng quốc tế thông báo về đơn có chỉ định Việt Nam, tùy thuộc thời điểm nào sớm hơn, nếu người thứ ba có ý kiến đối với Đơn Madrid có chỉ định Việt Nam thì ý kiến này được coi là nguồn thông tin tham khảo trong quá trình xử lý đơn./.
[1] Nghị định Chính phủ số 65/2023/NĐ-CP ngày 23 tháng 8 năm 2023 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật sở hữu trí tuệ về sở hữu công nghiệp, bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ