Tổng Giám đốc WIPO Daren Tang -"AI tạo sinh là một công nghệ mang tính cách mạng, có tiềm năng thay đổi cách chúng ta sống, làm việc và giải trí. Bằng cách phân tích dữ liệu và xu hướng bằng sáng chế, WIPO mong muốn nâng cao hiểu biết của chúng ta về hướng đi của lĩnh vực công nghệ đang phát triển nhanh chóng này”
1. Bảo vệ patent về AI
1.1 Thách thức và sự cần thiết trong việc bảo hộ patent về AI
Bằng sáng chế (patent) cho các giải pháp do AI tạo ra được cho là đã được cấp ít nhất từ những năm 1980, nhưng chưa ai từng tiết lộ vai trò của AI trong các đơn xin cấp patent. Các Cơ quan cấp patent thường không đặt câu hỏi về quyền tác giả; một số người nộp đơn xin cấp patent sớm nhất cho các sáng chế do AI tạo ra cho biết họ đã tự liệt kê mình là tác giả theo lời khuyên của luật sư.
Hiện nay có rất ít khuôn khổ pháp lý cho các sáng chế do AI tạo ra. Hầu hết các quốc gia yêu cầu đơn xin cấp patent phải liệt kê một cá nhân là tác giả. Yêu cầu này nhằm mục đích bảo vệ và công nhận quyền của những người là tác giả. Mặt khác, các tác giả không phải lúc nào cũng sở hữu các sáng chế của họ; thay vào đó, trong hầu hết các trường hợp, chủ sở hữu bằng sáng chế là các công ty.
Ví dụ, ở nhiều quốc gia, chủ /công ty sử dụng lao động được công nhận là chủ sở hữu patent nếu sáng chế được tạo ra trong quá trình người lao động thực hiện nhiệm vụ được giao. Ngay cả trong trường hợp tác giả không phải là chủ sở hữu patent, luật yêu cầu một cá nhân phải được liệt kê là tác giả để đảm bảo rằng tác giả được ghi nhận xứng đáng. Tuy nhiên, những luật Sáng chế này được soạn thảo mà không tính đến thực tế là hoạt động sáng tạo trong tương lai có thể được thực hiện bởi máy móc.
Trường hợp nổi bật là một thiết bị AI do Tiến sĩ Stephen Thalerg người Mỹ đã tạo ra mà ông gọi là "Thiết bị Khởi động Tự động của Nhận thức Thống nhất" (Device for Autonomous Bootstrapping of Unified Sentience - DABUS). Ông Thaler đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế tại nhiều quốc gia, khai báo rằng “người sáng chế” là DABUS có khả năng tự tạo ra các ý tưởng sáng tạo mà không có sự can thiệp trực tiếp của con người.
Cụ thể , có hai sáng chế do DABUS] tạo ra là
- Một thùng đựng thực phẩm với thiết kế hình xoắn có khả năng cách nhiệt tối ưu.
- Một đèn tín hiệu nhấp nháy theo dạng sóng độc đáo để thu hút sự chú ý trong tình huống khẩn cấp.
Các đơn xin cấp patent ghi DABUS là tác giả đã được nộp tại nhiều khu vực pháp lý. Kết quả đã bị chia rẽ :Cơ quan Patent Châu Âu và Cơ quan Sáng chế và Nhãn hiệu Hoa Kỳ đã từ chối đơn vì theo luật hiện hành, chỉ con người mới có thể là tác giả. Nam Phi đã chấp nhận các đơn này, công nhận DABUS là tác giả trong các quyết định mang tính bước ngoặt[1].
Như vậy câu hỏi vẫn còn bỏ ngỏ liệu AI có thể là tác giả của một sáng chế hay không; lập trường liên quan đến những trường hợp AI chỉ là tác giả một phần cũng chưa rõ ràng. Người sử dụng hệ thống bảo hộ bằng sáng chế không tin tưởng vào tính đầy đủ của chế độ bảo hộ dành cho các sáng chế do AI tạo ra.
Ngoài nội dung về tác giả còn nhiều vấn đề khác gây khó khăn cho việc bảo hộ, đó là: Yêu cầu công bố thông tin, AI có thể tạo ra những sáng chế thiếu khả năng giải thích, gây khó khăn cho việc đáp ứng các tiêu chuẩn mô tả patent. Sự khác biệt về lãnh thổ, các quốc gia khác nhau áp dụng các tiêu chuẩn khác nhau, dẫn đến sự phân mảnh pháp lý.
Tuy nhiên việc cấp patent nên được áp dụng cho các giải pháp do AI tạo ra vì nó sẽ kích thích sự đổi mới. Triển vọng được cấp patent sẽ không trực tiếp kích thích AI, nhưng sẽ kích thích một số người phát triển, sử dụng và sở hữu AI. Do đó, việc cấp patent cho các sáng chế do AI tạo ra sẽ khuyến khích sự phát triển của AI nhằm tạo ra các sáng chế, từ đó tạo điều kiện cho sự đổi mới mạnh mẽ hơn trong xã hội. Patent cũng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc công bố và thương mại hóa các sản phẩm quan trọng về mặt xã hội. Patent cho các phát minh do AI tạo ra sẽ giải quyết những vấn đề này hiệu quả như bất kỳ patent nào khác. Ngược lại, việc từ chối cấp patent cho các sáng chế do AI tạo ra đồng nghĩa với việc các công ty trong tương lai có thể không thể sử dụng AI để tạo ra các sáng chế, ngay cả khi AI có thể giải quyết một vấn đề nhất định hiệu quả hơn con người. Những hành động như vậy cũng sẽ khuyến khích việc trình bày sai lệch với các Cơ quan cấp patent bằng cách không tiết lộ rằng một ứng dụng cụ thể dựa trên một sáng chế do AI tạo ra.
Về vấn đề pháp lý Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) dựa trên kinh nghiệm pháp lý quốc tế hiện có đã xây dựng các nguyên tắc mà các quốc gia nên cân nhắc khi phát triển khuôn khổ pháp lý tương thích cho AI (Recommendation of the Council on Artificial Intelligence). Các nguyên tắc này ở cấp độ cao và ủng hộ các công nghệ do AI tạo ra, đó là :
Thúc đẩy tăng trưởng toàn diện;
Tôn trọng nhân quyền và công bằng;
Đảm bảo tính minh bạch và khả năng giải thích;
Hỗ trợ độ tin cậy và an ninh.
Nếu tuân thủ các nguyên tắc được OECD khuyến nghị, đặc biệt là nguyên tắc minh bạch của công nghệ AI, thì hệ thống bảo hộ patent đáp ứng được yêu cầu này, vì có yêu cầu về việc công bố sáng chế một cách rõ ràng và đầy đủ để người có chuyên môn trong lĩnh vực này có thể triển khai.
1.2 Bảo hộ sáng chế do AI tạo ra tại các nước
Theo báo cáo mới của WIPO, Trung Quốc đang nộp nhiều bằng sáng chế nhất trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, bỏ xa năm quốc gia đứng đầu khác là Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ. Từ năm 2014 đến năm 2023, Trung Quốc đã đăng ký hơn 38.000 đơn sáng chế do AI tạo sinh – gấp sáu lần so với Hoa Kỳ, quốc gia sở hữu bằng sáng chế lớn thứ hai. Ấn Độ, đứng thứ năm, có tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm cao nhất trong năm quốc gia gia hàng đầu, đạt 56%. Cũng theo WIPO, năm 2021, Nga đứng thứ 16 thế giới về số lượng sáng chế trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo. đó là do Nga vẫn chưa tạo ra hệ thống luật pháp hoàn thiện hay nguồn tài trợ quy mô lớn trong lĩnh vực AI.
Mười công ty nộp đơn đăng ký sáng chế hàng đầu trong lĩnh vực AI tạo ra bao gồm Tencent (2.074), Ping An Insurance (1.564), Baidu (1.234), Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc (607), IBM (601), Alibaba Group (571), Samsung Electronics (468), Alphabet (443), ByteDance (418) và Microsoft (377).
2. Bảo vệ AI bằng bí mật thương mại
Trong khi các cơ quan quản lý đang vật lộn với những vấn đề này và các vấn đề khác- trong đó có cả vấn đề về quá trình xin cấp bằng sáng chế là một thủ tục khá dài: đó là tại các Cơ quan cấp bằng sáng chế quốc gia, đôi khi có thể mất từ 3 đến 5 năm để nghiên cứu đơn đăng ký sáng chế, nộp đơn theo hệ thống hợp tác patent quốc tế (PCT) tuy giúp giảm chi phí và có thể giúp thực hiện hiệu quả việc bảo vệ ở một số khu vực pháp lý, nhưng cũng sẽ mất nhiều thời gian hơn so với nộp đơn trực tiếp trong nước thì các công ty cũng tìm kiếm những cách thay thế để bảo vệ các sáng chế mà họ đã chi rất nhiều tiền, đó là bí mật thương mại.
Do các sáng chế do AI tạo ra không bị hạn chế như đã nêu trên, nếu chúng được bảo hộ dưới dạng bí mật thương mại, ví dụ, các công ty Y tế - Sinh học đang ngày càng khám phá và sử dụng biện pháp bảo vệ bí mật thương mại vì họ ngày càng ít tự tin rằng họ có thể bảo vệ đầy đủ các công nghệ và sản phẩm của mình bằng patent hoặc thu hồi vốn đầu tư thông qua bảo vệ patent, khi đó sáng chế do AI tạo ra chỉ cần được giữ bí mật và duy trì bí mật đó bất kể nó được thương mại hóa bằng cách nào. Không có điều khoản nào trong định nghĩa về bí mật thương mại ngăn cản việc bảo vệ thông tin do AI hoặc chính hệ thống AI tạo ra. Bằng cách lựa chọn con đường bảo hộ thông qua bí mật thương mại, các công ty được bỏ qua việc tiết lộ thông tin về các hoạt động tạo ra giải pháp, vốn là điều kiện cần thiết để được cấp patent (Điều 29 TRIPS). Không giống như patent, chỉ bảo hộ một số loại thông tin nhất định (Điều 27 TRIPS), việc bảo hộ bí mật thương mại có thể mở rộng đến hầu như bất kỳ loại thông tin nào nếu thông tin này có giá trị độc lập, thông tin này chưa được biết đến rộng rãi và Chủ thể quyền đã có những nỗ lực hợp lý để giữ bí mật (Điều 39 TRIPS). Ngoài ra đối với AI nói riêng, có một số lý do tại sao bí mật thương mại đặc biệt có giá trị và phù hợp để bảo hộ sở hữu trí tuệ so với patent: Công nghệ AI đang phát triển và cải thiện nhanh chóng với tốc độ mà hệ thống patent không được thiết kế để theo kịp; Một số công nghệ quan trọng nhất trong AI là bí quyết triển khai/know-how lại bị coi là không phù hợp để được bảo hộ patent. Ví dụ, vì xe tự lái vẫn chưa có mặt rộng rãi trên thị trường, một số công ty đã giữ bí mật công nghệ của mình nhằm chống lại việc các đối thủ cạnh tranh để có được lợi thế, điển hình là vụ Tesla kiện cựu nhân viên Cao Quang Chi với bị cáo buộc ăn cắp mã nguồn Autopilot của Tesla trước khi rời công ty vào cuối năm 2018 để gia nhập Xpeng Motors[2] .
Do vậy , bất chấp các xu hướng pháp lý nhằm tăng cường tính minh bạch của các mô hình AI, trên thực tế, các công ty vẫn thường sử dụng biện pháp bảo vệ bí mật thương mại. Đó là con đường tương tự trước đây cũng được cho là đã được OpenAI nổi tiếng (những người tạo ra ChatGPT) khám phá cho đến gần đây (2024) , OpenAI được cho là bảo vệ các giải pháp của mình thông qua bí mật thương mại, chứ không phải bằng patent. Đơn xin cấp patent không được công bố cho đến 18 tháng sau khi nộp, và giải pháp chính của OpenAI, ChatGPT, đã được tạo ra lần đầu tiên cách đây khoảng 2 năm.
Nguồn :
https://wto.ru/our-blog/patent-ili-kommercheskaya-tayna/;
https://habr.com/ru/companies/onlinepatent/articles/743994/
https://ipwatchdog.com/2024/12/12/trade-secrets-and-ai-systems-the-future-of-trade-secret-protection-in-business/id=184002/
(++)