Logo

Tóm tắt về Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ

04/02/2021

Luật Sở hữu trí tuệ (SHTT) được Quốc hội Việt Nam thông qua năm 2005 (Luật số 50/2005/QH11) có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (Luật số 36/2009/QH12) và năm 2019 (Luật số 42/2019/QH14).

Luật sửa đối, bổ sung Luật SHTT sắp tới nhằm giải quyết một số thiếu sót, vướng mắc trong thực tiến thi hành luật trong 15 năm qua, nội luật hóa các cam kết quốc tế về SHTT khi Việt Nam gia nhập WTO/TRIP (2007) và một loạt các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, như CPTPP, EV-FTA, RCEP, trong những năm vừa qua.

Bộ Khoa học và Công nghệ (MoST) được giao trách nhiệm chủ trì và  phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (MoCST- phụ trách lĩnh vực bản quyền) và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (MARD- phụ trách lĩnh vức giống cây trồng mới) dự thảo Luật.

Quá trình dự thảo bắt đầu từ đầu năm 2019, kết thúc vào cuối năm 2020, đánh dấu bằng việc MoST công bố Dự thảo (bản 2.0) trên website vào ngày 17/11/2020 để xin ý kiến công chúng trong vòng 60 ngày (hết hạn vào ngày 17/1/2021). Trên cơ sở các ý kiến đóng góp, Bộ KH-CN sẽ hoàn thiện Dự thảo,; trình Chính phủ  xem xét lần cuối vào Quý 2, 2021, sau đó trình Quốc hội vào kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV, tháng 10/2021.

Dự thảo đã đề cập tới  80 điều của 14 chương (Chương II, III, V, VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII, XIII, XIV, XVI, XVIII), cụ thể như sau:

-  Sửa đổi, bổ sung 67 điều: Điều 3, 4, 20, 21, 22, 25, 26, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 35, 36, 49, 50, 52, 55, 56, 60, 72, 73, 74, 75, 79, 80, 86, 88, 92, 95, 96, 97, 100, 103, 106, 109, 110, 112, 117, 121, 123, 124, 125, 128, 130, 139, 145, 146, 151, 153, 154, 155, 157, 158, 163, 165, 171, 176, 186, 188, 190, 198, 201, 211, 213, 216;

-  Bổ sung 01 mục: Mục 5 Chương VIII;

-  Bổ sung 13 điều: Điều 56a, 86a, 89a, 112a, 119a, 120b, 120c, 128a, 131a, 133a, 136a, 198a, 198b

Sau khi sửa đổi, bổ sung thì Luật SHTT sẽ có 18 chương và 235 điều, tăng 13 điều so với Luật hiện hành)

Nhìn chung  có thể xếp các sửa đổi, bổ sung vào 7 nhóm sau: 

(i) Quyền tác giả - quyển liên quan:

Dự thảo quy định rõ hơn, chi tiết hơn về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan. Những sửa đổi đáng lưu ý là:

-  Sửa đổi Điều 20  (Quyền tài sản), theo đó làm rõ quyền biểu diễn; quyền sao chép; quyền phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng; quyền truyền đạt, bao gồm cả việc cung cấp tác phẩm đến công chúng theo cách mà công chúng có thể tiếp cận được tại địa điểm và thời gian do chính họ lựa chọn; quyền cho thuê và quy định về cạn quyền để đáp ứng yêu cầu thực tiễn và đảm bảo thực thi theo cam kết quốc tế;

-  Sửa đổi Điều 21 (Quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu), theo đó bỏ một số chức danh được hưởng quyền nhân thân do không còn phù hợp với tình hình thực tiễn như mỹ thuật trường quay, thiết kế đạo cụ, đồng thời luật hóa quy định tại Nghị định số 22/2018/NĐ-CP về "Tác giả và tổ chức, cá nhân đầu tư tài chính và cơ sở vật chất - kỹ thuật để sáng tạo tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu có thể thỏa thuận về việc đặt tên, sửa chữa tác phẩm" để đáp ứng nhu cầu thực tiễn.

-  Sửa đổi Điều 22 (Quyền tác giả đối với chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu), theo đó luật hóa quy định tại Nghị định số 22/2018/NĐ-CP về “Tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả đối với chương trình máy tính có thể thỏa thuận về việc sửa chữa, nâng cấp chương trình máy tính” và “Tổ chức, cá nhân đang có quyền sử dụng hợp pháp bản sao chương trình máy tính có thể làm một bản sao dự phòng để thay thế khi bản sao đó bị xóa, bị hỏng hoặc không thể sử dụng được, với điều kiện việc sử dụng bản sao dự phòng này không trái với thỏa thuận trong giấy phép và không được chuyển giao cho người khác” để phù hợp với thực tiễn và thực thi cam kết quốc tế.

-   Sửa đổi Điều 25 (Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả, không phải trả tiền bản quyền), theo đó sửa đổi, bổ sung một số quy định về sử dụng tác phẩm nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy, học tập của cá nhân; sử dụng để có thông tin hoặc làm tài liệu dùng trong hoạt động nội bộ của cơ quan Nhà nước và không nhằm mục đích thương mại; sử dụng trong hoạt động thư viện; sử dụng cho người khiếm thị, người khuyết tật về thị giác và người khuyết tật khác v.v. để đảm bảo thực thi cam kết quốc tế, đồng thời cân bằng lợi ích giữa chủ thể quyền tác giả và công chúng hưởng thụ tiếp cận tác phẩm để tiếp tục nghiên cứu, học tập, sáng tạo v.v.

-   Sửa đổi Điều 26 (Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép chủ sở hữu quyền tác giả nhưng phải trả tiền bản quyền), theo đó chuyển nội dung về việc sử dụng tác phẩm được định hình trên bản ghi âm, ghi hình đã công bố trong hoạt động kinh doanh, thương mại tại khoản 2 Điều 33 chuyển sang thành khoản 1b Điều 26 để phù hợp với Điều 13 Công ước Berne; bổ sung cơ chế hiệp thương giá theo quy định của Chính phủ trong trường hợp các bên không thỏa thuận được và quy định về việc tổ chức, cá nhân Việt Nam hưởng ưu đãi dành cho các nước đang phát triển đối với quyền dịch các tác phẩm từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt và quyền sao chép để giảng dạy và nghiên cứu không nhằm mục đích lợi nhuận theo quy định của Chính phủ.

(ii) Sở hữu công nghiệp

Dự thảo quy định rõ hơn, chi tiết hơn về khả năng bảo hộ; quyền sở hữu, quyền khai thác đối với các sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả nghiên cứu khoa học có sử dụng vốn nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích thương mại hóa tài sản trí tuệ. Đáng lưu ý là:

-   Sửa đổi khoản 1 Điều 60 (Tính mới của sáng chế), theo đó làm rõ sáng chế trong đơn đăng ký sáng chế có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên muộn hơn cũng bị coi là mất tính mới nếu đã được bộc lộ trong đơn đăng ký sáng chế của người khác có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn nhưng được công bố trong hoặc sau ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên của đơn đăng ký sáng chế đó.

-   Sửa đổi khoản 1 Điều 72 (Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ), theo đó bổ sung bảo hộ nhãn hiệu âm thanh nhằm thi hành nghĩa vụ tại Điều 18.18 Hiệp định CPTPP về loại dấu hiệu có thể đăng ký làm nhãn hiệu, cụ thể, liệt kê thêm “dấu hiệu âm thanh thể hiện được dưới dạng đồ họa” vào các dấu hiệu đã có.

-   Sửa đổi khoản 2 Điều 74 (Khả năng phân biệt của nhãn hiệu), cụ thể:

a) Sửa đổi, bổ sung tiêu đề khoản 2 nhằm xác định rõ nguyên tắc đơn được đánh giá điều kiện bảo hộ tại thời điểm nộp đơn.

b) Sửa đổi điểm e) về đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu liên kết để phù hợp với việc xóa khái niệm nhãn hiệu liên kết tại khoản 19 Điều 4.

c)  Đối với điểm h) Bổ sung thêm 2 quy định:

-  Rút ngắn khoảng thời gian để người tiêu dùng quên đi sự tồn tại của một nhãn hiệu từ 5 năm xuống 3 năm trên cơ sở: (i) sự phát triển nhanh chóng của kinh tế thị trường và các loại hình quảng bá khiến cho số lượng nhãn hiệu ngày càng nhiều, thời gian lưu lại trí nhớ về một nhãn hiệu của công chúng ngày càng ngắn trong trường hợp một nhãn hiệu nào đó đã rút khỏi thị trường; (ii) gia tăng nhãn hiệu dẫn đến tài nguyên nhãn hiệu ngày càng hạn hẹp, vì vậy cần tạo cơ chế để rút bỏ các nhãn hiệu đã không còn được quan tâm (do không gia hạn hiệu lực, từ bỏ bảo hộ v.v.) và trao cơ hội cho các nhãn hiệu trùng/tương tự nộp sau được bảo hộ.

- Trong trường hợp một đăng ký nhãn hiệu đã chấm dứt hiệu lực nhưng chưa đủ 3 năm bị lấy ra làm đối chứng để từ chối nhãn hiệu nộp sau, nếu người nộp đơn chứng minh được nhãn hiệu đã đó thậm chí còn không được sử dụng 5 năm liên tục, thì có thể yêu cầu không dùng nhãn hiệu đối chứng đó để ngăn cản việc đăng ký nhãn hiệu của mình.
-  Bổ sung Điều 86a, theo đó quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách Nhà nước thuộc về tổ chức chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ và tổ chức này sẽ trở thành chủ sở hữu, trừ trường các đối tượng này thuộc lĩnh vực quốc phòng và an ninh quốc gia sẽ do đại diện chủ sở hữu Nhà nước thực hiện quyền đăng ký.

-  Bổ sung Điều 133a, theo đó bổ sung các trường hợp Nhà nước giao quyền đăng ký cho tổ chức, cá nhân KHÁC, hoặc thực hiện công bố công khai để toàn xã hội được tiếp cận và khai thác trong trường hợp không có tổ chức, cá nhân nào có nhu cầu nhận giao quyền đăng ký các đối tượng nói trên.

(iii)  Thủ tục đăng ký xác lập quyền nói chung

Dự thảo thực hiện một số sửa đổi, bổ sung để thủ tục đăng ký xác lập quyền đơn giản, minh bạch hơn, thuận tiện cho người nộp đơn; bổ sung hình thức nộp đơn trực tuyến để phù hợp với lộ trình cung cấp dịch vụ công trực tuyến của Chính phủ. Một số điểm đáng lưu ý là:
- Sửa đổi Điều 109 (Thẩm định hình thức đơn đăng ký sở hữu công nghiệp), theo đó bổ sung quy định tại khoản 2 về trường hợp đơn sáng chế được nộp trái với quy định về kiểm soát an ninh trước khi đăng ký ra nước ngoài sẽ bị coi là không hợp lệ.
- Sửa khoản 3 Điều 109 - bổ sung quy định cho phép đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp có thể được công bố vào thời điểm muộn hơn thời điểm quy định theo yêu cầu của người nộp đơn nhưng không quá bảy tháng kể từ ngày nộp đơn để phù hợp với xu thế chung của thế giới về việc cho phép chủ đơn không phải bộc lộ kiểu dáng quá sớm (do dễ bị bắt chước) để có thời gian chuẩn bị trước khi chính thức đưa sản phẩm mang kiểu dáng công nghiệp ra thị trường.
- Bổ sung Điều 119a về khiếu nại và giải quyết khiếu nại liên quan đến các thủ tục về sở hữu công nghiệp, theo đó xác định một số đặc thù trong khiếu nại liên quan đến sở hữu công nghiệp để áp dụng riêng mà không theo quy định chung của Luật Khiếu nại.

 (iv) Đảm bảo mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng quyền lợi giữa chủ sở hữu quyền và xã hội.

- Sửa đổi Điều 95 (Chấm dứt hiệu lực văn bằng bảo hộ), cụ thể bổ sung điểm h, i, k, khoản 1 về các trường hợp văn bằng bảo hộ bị chấm dứt (việc sử dụng nhãn hiệu làm cho công chúng hiểu sai lệch về bản chất, chất lượng hoặc nguồn gốc địa lý của hàng hóa hoặc dịch vụ; nhãn hiệu trở thành tên gọi thông thường của hàng hoá, dịch vụ đăng ký cho chính nhãn hiệu đó; chỉ dẫn địa lý của nước ngoài không còn được bảo hộ tại nước xuất xứ). 
- Sửa đổi bổ sung khoản 2 Điều 190 (Hạn chế quyền của chủ bằng bảo hộ giống cây trồng)- bổ sung giới hạn giữ giống (giao cho Chính phủ ban hành) cho vụ sau nhằm phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay đồng thời tương thích với Công ước UPOV. 

(v) Tăng cường hiệu quả, chất lượng dịch vụ  đại diện, giám định sở hữu công nghiệp

-  Sửa đổi Điều 155 (Điều kiện hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp) theo hướng cá nhân để được cấp chứng chỉ hành nghề dịch vụ đại diện sở hữu công nghiệp phải có (i) bằng tốt nghiệp đại học ngành luật (đối với trường hợp hành nghề trong lĩnh vực nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại, chống cạnh tranh không lành mạnh, bí mật kinh doanh) hoặc (ii) bằng đại học ngành luật và bằng đại học chuyên ngành khoa học kỹ thuật (đối với trường hợp hành nghề trong lĩnh vực sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí).

(vi) Nâng cao hiệu quả thực thi quyền sở hữu trí tuệ

-  Sửa đổi Điều 211 (Hành vi xâm phạm quyền SHTT bị xử phạt phạm hành chính) để phân định rõ các trường hợp xử phạt bằng biện pháp hành chính và biện pháp dân sự. Có hai phương án áp dụng biện pháp hành chính, đó là (i) chỉ giới hạn ở hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với quyền tác giả, quyền liên quan, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, giống cây trồng, hoặc (ii) chỉ giới hạn ở hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan để phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam, các cam kết quốc tế và các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam tham gia.
-  Sửa đổi điểm b khoản 5 Điều 124 (Sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp) theo hướng thay hành vi "lưu thông" thành các hành vi “bán, trưng bày để bán, vận chuyển” (như quy định tại Điều 21 Nghị định 103/2006) nhằm thi hành nghĩa vụ tại Điều 18.77.2 Hiệp định CPTPP quy định phải xử lý hình sự đối với hành vi nhập khẩu hoặc xuất khẩu hàng hoá giả mạo nhãn hiệu ở quy mô thương mại.

 (vii) Bảo đảm thi hành đầy đủ  các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo hộ quyền SHTT:

-  Bổ sung Điều 131a về quy định đền bù cho chủ sở hữu sáng chế vì sự chậm trễ trong việc cấp phép lưu hành dược phẩm để thi hành nghĩa vụ tại Hiệp định EVFTA. Lời văn của Điều này được lấy từ Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định EVFTA.
-  Bổ sung điểm d, khoản 1 Điều 145 (Căn cứ bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế), theo đó bổ sung căn cứ chuyển giao bắt buộc, theo đó có thể yêu cầu chuyển giao bắt buộc quyền sử dụng đối với sáng chế để đáp ứng nhu cầu của nước nhập khẩu đủ điều kiện theo quy định của Hiệp định TRIPS.
-  Sửa đổi bổ sung Điều 157 (Tổ chức, cá nhân được bảo hộ quyền đối với giống cây trồng), theo đó tại khoản 2 làm rõ “đối xử quốc gia” (Điều 4 Luật 1991 Công ước UPOV) khi chỉ có nghĩa vụ bảo hộ cho công dân và cư dân các quốc gia thành viên UPOV được đối xử như công dân Việt Nam.
-  Bỏ quy định điều kiện giống được bảo hộ tại Điều 158 (Điều kiện chung đối với giống cây trồng được bảo hộ) là “thuộc Danh mục loài cây trồng được Nhà nước bảo hộ do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành” do quy định tại khoản 2 Điều 3 Luật 1991 Công ước UPOV quy định: “Mỗi Bên ký kết sẽ áp dụng bảo hộ cho tất cả các chi và loài cây trồng muộn nhất là khi kết thúc thời hạn 10 năm kể từ ngày nói trên”. Việt Nam tham gia Công ước UPOV ngày 24/12/2006 như vậy kể từ 25/12/2016 có quyền lợi và nghĩa vụ bảo hộ tất cả các chi và loài cây trồng./.

Pham & Associates

 

Các bài viết khác