Logo

Trung Quốc: Tòa án SHTT Quảng Châu xác nhận hàng hóa nhập khẩu song song hợp pháp

10/10/2024
Tòa án đã áp dụng cách tiếp cận trung lập cho rằng, liên quan tới nhãn hiệu, tính hợp pháp của việc nhập khẩu song song phải được đánh giá, xem xét  trên cơ sở từng trường hợp cụ thể

1.  Sự việc

SPATEN-FRANZISKANER-BRÄU GmbH (Đức) là chủ sở hữu của hai nhãn hiệu quốc tế, “Franziskaner” (số 807592) và “Franziskaner Weissbier” (số 1241072), đã cấp phép cho Budweiser Investment (China) Ltd. (sau đây gọi là “Budweiser”) sử dụng và duy trì cả hai nhãn hiệu này tại Trung Quốc (hình bên).

Vào ngày 7/3/2019, Budweiser (Nguyên đơn) đã đệ đơn kiện cho rằng Công ty TNHH Xuất nhập khẩu Keyuan Oriental Keyuan (sau đây gọi là “Keyuan”/Bị đơn) đã xâm phạm quyền nhãn hiệu do nhập khẩu một lô bia giống hệt nhãn hiệu quốc tế nêu trên mà không được phép.

Bị đơn đang tranh chấp cho  rằng bia nhập khẩu nói trên là hàng nhập khẩu song song về mặt pháp lý, được sản xuất ở Châu Âu bởi chủ sở hữu nhãn hiệu (SPATEN-FRANZISKANER-BRÄU GmbH) và xuất khẩu thông qua công ty liên kết của nó, điều này không cấu thành hành vi vi phạm các quyền nhãn hiệu được đề cập.

Tòa án nhân dân quận Yuexiu đã ra phán quyết có lợi cho nguyên đơn, yêu cầu bị đơn tiêu hủy sản phẩm vi phạm và bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn. Tuy nhiên, sau đó, khi kháng cáo, Tòa án Sở hữu trí tuệ Quảng Châu đã hủy bản án sơ thẩm và cho rằng hàng hóa của bị đơn là hàng nhập khẩu song song hợp pháp.

2. Kết luận của Tòa án SHTT Quảng Châu

2.1  Xác định khái niệm nhập khẩu song song

Tòa án Sở hữu trí tuệ Quảng Châu lần đầu tiên làm rõ định nghĩa “nhập khẩu song song nhãn hiệu” là “việc buôn bán xuyên biên giới hàng hóa do chủ sở hữu nhãn hiệu sản xuất hoặc bán ra nước ngoài có gắn nhãn hiệu hợp pháp, được nhập khẩu vào nước thứ ba hoặc bán qua hải quan mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được cấp phép”. Nhìn chung, hành vi nhập khẩu song song nhãn hiệu bao gồm 5 yếu tố cấu thành sau:

1. Chủ sở hữu quyền có thẩm quyền pháp lý đối với nhãn hiệu nói đến ở cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu;

2. Sản phẩm nhập khẩu song song do chính chủ sở hữu nhãn hiệu sản xuất và đưa ra thị trường nước ngoài hoặc được sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu;

3. Quyền nhãn hiệu ở nước xuất khẩu và nước nhập khẩu về cơ bản thuộc sở hữu của cùng một cá nhân hoặc tổ chức;

4. Hàng hóa được nhập khẩu vào lãnh thổ mục tiêu mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu tại nước nhập khẩu; Và

5. Việc nhập khẩu không vi phạm thủ tục kiểm soát hải quan thông thường và hợp pháp của nước nhập khẩu.

2.2  Xác định tính hợp pháp của nhập khẩu song song trong vụ việc cụ thể

Trong quá trình tố tụng chính, Tòa án phát hiện ra rằng loại bia đang được đề cập ban đầu được sản xuất và đưa ra thị trường ở Đức bởi SPATEN-FRANZISKANER-BRÄU GmbH, sau đó được INBEV BELGIUM S.A. bán và xuất khẩu cho OKUNI TRADING BUANGKOK CRESCENT, nhà nhập khẩu được ủy quyền và nhà phân phối bia “Franziskaner” tại Singapore. Sau đó, STARBEV PTE LTD bán lại bia mua từ OKUNI TRADING BUANGKOK CRESCENT cho bị đơn và OKUNI TRADING BUANGKOK CRESCENT đã trực tiếp sắp xếp chuyến hàng từ Singapore đến Trung Quốc theo hợp đồng mua bán giữa OKUNI và STARBEV cũng như giữa STARBEV và bị đơn. Bằng chứng sẵn có chứng minh rằng nhà sản xuất, người bán và người gửi hàng ở Châu Âu, người cấp phép nhập khẩu và bán hàng ở Singapore và nguyên đơn trong vụ kiện này đều là công ty mẹ trực tiếp hoặc gián tiếp của ANHEUSER-BUSCH INBEV NV/SA.

Vì vậy, tòa án xác định hàng hóa nhập khẩu song song là hàng chính hãng

Thứ hai, và vì Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không cấm một cách rõ ràng tất cả các hoạt động nhập khẩu song song nhãn hiệu, nên tòa án sẽ đưa ra phán quyết dựa trên mục đích lập pháp và các nguyên tắc của luật nhãn hiệu trên cơ sở từng trường hợp cụ thể, tức là để bảo vệ chức năng của nhãn hiệu và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Thứ hai, và vì Trung Quốc không cấm một cách rõ ràng tất cả các hoạt động nhập khẩu song song nhãn hiệu, nên tòa án sẽ đưa ra phán quyết dựa trên mục đích lập pháp và các nguyên tắc của luật nhãn hiệu trên cơ sở từng trường hợp cụ thể, tức là để bảo vệ chức năng của nhãn hiệu và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

Chức năng cốt lõi của nhãn hiệu là xác định nguồn gốc hàng hóa. Trong trường hợp này, nhãn hiệu được sử dụng trong hàng hóa bị cáo buộc vi phạm về cơ bản thuộc sở hữu của cùng một chủ sở hữu quyền ở cả quốc gia xuất xứ (Đức) và quốc gia nhập khẩu cuối cùng (Trung Quốc). Vì vậy, đối với công chúng liên quan tại thị trường Trung Quốc, nhãn hiệu bị cáo buộc vi phạm đã không cắt đứt mối liên kết độc quyền giữa chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa nhập khẩu song song và không tạo ra nguy cơ nhầm lẫn.

Ngoài ra, cả hàng hóa nhập khẩu song song và hàng hóa được cấp phép bán tại thị trường Trung Quốc đều chịu sự kiểm soát của hệ thống kiểm soát chất lượng sản phẩm của cùng một chủ thể quyền và được chủ thể quyền đưa ra thị trường theo quy luật thị trường, nghĩa là rằng sự đảm bảo chất lượng vốn có của nhãn hiệu đã được đáp ứng.

Theo quan điểm trên, tòa án đã phán quyết rằng nhãn hiệu hàng hóa Trung Quốc được đề cập không bị vi phạm, vì hàng hóa nhập khẩu song song không làm suy yếu chức năng của đạo luật nhãn hiệu hàng hóa Trung Quốc cũng như không dẫn đến nguy cơ xác định sai nguồn gốc hàng hóa bởi công chúng/người tiêu dùng.

3. Nhận xét

Phán quyết vụ việc này, tòa án SHTT Quảng Châu  đã áp dụng cách tiếp cận trung lập đối với việc nhập khẩu song song các nhãn hiệu, cho rằng tính hợp pháp của việc nhập khẩu song song phải được đánh giá trên cơ sở từng trường hợp cụ thể, xem xét hoàn cảnh của từng trường hợp cụ thể. Nếu quyền nhãn hiệu được sử dụng trên hàng hóa nhập khẩu song song về cơ bản được trao cho cùng một người với quyền nhãn hiệu ở nước nhập khẩu và chức năng của nhãn hiệu Trung Quốc không bị ảnh hưởng thì không có lý do gì để cấm nhập khẩu song song, tuy nhiên hoạt động thương mại điện tử hiên nay cũng đặt ra nhiệu thách thức đối với việc áp dụng quy định này.

Về thực tế hiện Trung Quốc cũng chưa có quy định rõ ràng về nhập khẩu song song trong luật nhãn hiệu hiện hành, các quy định thi hành luật nhãn hiệu và các giải thích tư pháp liên quan, không cho phép cũng như cấm nhập khẩu song song, hầu hết các vụ việc tranh chấp liên quan đến nhập khẩu song song do chủ nhãn hiệu ở Trung Quốc đưa ra chủ yếu dựa vào lý do xâm phạm nhãn hiệu và cạnh tranh không lành mạnh.Tuy nhiên có một số ví dụ về các văn bản quy phạm mang tính cá biệt về nhập khẩu song song đã được ban hành , như: 
Trong năm 2016 và 2019, Bộ Thương mại cùng với một số cục khác đã ban hành 2 văn bản đề xuất thực hiện Đề án thí điểm nhập khẩu song song ô tô vào Khu phi mậu dịch tự do; 
-  
Năm 2021, Tỉnh Hải Nam  đã ban hành văn bản khác, cho phép thương nhân nhập khẩu, bán song song hàng hóa nhập khẩu tại Cảng Thương mại Tự do Hải Nam, trừ trường hợp việc sử dụng nhãn hiệu đã đăng ký liên quan sẽ gây tổn hại đến đặc điểm phân biệt hoặc danh tiếng của nhãn hiệu đã đăng ký.

Nguồn :
https://www.elzaburu.es/blog/2021/09/trademark-infringement-in-parallel-importation.html

https://asiaiplaw.com/sector/ip-management/parallel-imports-in-china-problems-and-feasible-solutions
https://www.iptechblog.com/2022/08/china-alternative-strategies-to-trademark-enforcement-against-parallel-import-of-cosmetics-by-unauthorized-sellers/

 

Các bài viết khác