Logo

Một số vấn đề về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong môi trường số và internet trên thế giới và ở Việt Nam

26/09/2016

Trong thời đại hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của việc ứng dụng internet và kỹ thuật số, nhu cầu bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) trong các lĩnh vực mới này ngày càng trở nên cấp thiết. Các hành vi xâm phạm quyền SHTT trên mạng trực tuyến ngày càng tăng về số lượng, độ phức tạp và liên quan đến tất cả các đối tượng của quyền SHTT làm cho vấn đề bảo hộ quyền SHTT trong môi trường mới này đang gặp phải những thách thức mới.

Trong thời đại hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của việc ứng dụng internet và kỹ thuật số, nhu cầu bảo hộ sở hữu trí tuệ (SHTT) trong các lĩnh vực mới này ngày càng trở nên cấp thiết. Các hành vi xâm phạm quyền SHTT trên mạng trực tuyến ngày càng tăng về số lượng, độ phức tạp và liên quan đến tất cả các đối tượng của quyền SHTT làm cho vấn đề bảo hộ quyền SHTT trong môi trường mới này đang gặp phải những thách thức mới.

 

Trong phạm vi bài này chỉ nêu lên một số vấn đề liên quan đến bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp (SHCN) trong môi trường số và internet ở nước ngoài và ở Việt Nam bao gồm các hành vi xâm phạm đối với nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại… xảy ra trên môi trường phi truyền thống này cũng như các giải pháp xử lý vi phạm có thể được thực hiện theo quy định của pháp luật SHTT.

 

Trong thực tế cho đến nay các xâm phạm quyền đối với các đối tượng SHCN trên môi trường số và internet chủ yếu xảy ra trong lĩnh vực thương mại điện tử (E-comerce) và hành vi chiếm đoạt tên miền (Domain name) của các nhãn hiệu được bảo hộ.

 

Xâm phạm quyền SHCN trong thương mại điện tử (TMĐT) và biện pháp thực thi

 

Cùng với sự phát triển của internet và kỹ thuật số, TMĐT cũng phát triển mạnh mẽ và rộng khắp trên toàn cầu. Các nước phát triển đứng hàng đầu về quy mô của thị trường TMĐT bên cạnh nền kinh tế truyền thống. Chỉ tính riêng ở Trung Quốc trong năm 2013, các giao dịch hàng hóa thông qua TMĐT đạt 10.5 nghìn tỷ NDT và dự tính năm 2014 sẽ đạt 13.4 nghìn tỷ NDT (hơn 2.000 tỷ USD). Thị trường TMĐT ở Việt Nam mới chỉ đi những bước ban đầu, nhưng theo ước tính đã đạt vài trăm triệu USD vào những năm gần đây và với sự phát triển nhanh chóng của số người dùng internet và điện thoại di động giao dịch hàng hóa trên mạng sẽ phát triển rất nhanh chóng.

 

  1. Sự khác nhau giữa TMĐT và TM truyền thống:

 

Điểm chính mà TMĐT khách biệt với TM thông thường chính là các thông tin và giao dịch hàng hóa đều được thực hiện trên mạng. Toàn bộ quá trình như cung cấp thông tin, thanh toán tiền cũng như giao hàng được thực hiện tách biệt với sự tham gia của các bên cung cấp dịch vụ khác nhau, khác với TM truyền thống là các khâu trên thực hiện cùng chỗ và đồng thời.

 

Bảng so sánh tóm tắt

 

 

Kênh thông tin

Thanh toán

Giao hàng

TM truyền thống

·      Quầy trưng bày hàng hóa

·       Tài liệu giới thiệu hàng hóa

·      Tiền mặt

·      Thẻ tín dụng

·      Séc ngân hàng

·      Giao hàng tại chỗ

·      Vận chuyển tận nhà

TMĐT

·   Trang web riêng

·   Công cụ tra cứu

·   Sàn giao dịch điện tử chuyên nghiệp

·   Ngân hàng

·   Bên thứ ba phục vụ thanh toán trực tuyến

·   Dịch vụ vận chuyển tận nhà

 

Các khác biệt trên tạo nên hai đặc điểm của các hành vi xâm phạm quyền SHCN trong TMĐT:

 

      i/ Theo cách thức thương mại truyền thống việc giao dịch mua bán thường thực hiện cùng với hàng hóa thực, kể cả việc trưng bày hay vận chuyển. Luật SHTT quy định xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng, nhãn hiệu hay chỉ dẫn địa lý là dựa trên các đặc điểm giao dịch của hàng hóa thực. Nghĩa là việc xác định xâm phạm quyền sẽ dựa trên việc xem xét trực tiếp  các hàng hóa đó có  chứa các yếu tố xâm phạm các đối tượng SHTT hay không để đưa ra kết luận. Còn trong TMĐT với  ngồn ngộn thông tin trên mạng việc lựa chọn, nhận biết và xác định đối tác mua bán cũng quan trọng và nhiều phương án không kém gì việc lựa chọn bản thân hàng hóa. Bởi vậy, việc thông tin các sản phẩm được chào bán trên mạng sẽ đặt ra một câu hỏi: liệu có thể xác định được việc cung cấp thông tin như vậy có thể có yếu tố cấu thành hành vi xâm phạm quyền hay không? Đây là điều không dễ vì:

 

- Không có được hàng hóa thực để có thể xem xét hàng hóa có chứa các yếu tố vi phạm hay không.

- Không có kết luận trên thì không thể coi việc cung cấp thông tin chào bán hàng hóa nêu trên là vi phạm hay không vi phạm quyền đối với các đối tượng SHCN đang được bảo hộ, khi áp dụng quy định của luật SHTT về hành vi vi phạm là “quảng cáo, chào bán” các hàng hóa chứa đựng các yếu tố xâm phạm quyền đối với các đối tượng là sáng chế, kiểu dáng, nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý của người khác.

 

ii/ Vấn đề quy trách nhiệm liên đới trong các vi phạm quyền trong TMĐT cũng xảy ra thường xuyên và cũng là vấn đề không dễ xác định. Do TMĐT là tổ hợp của các dịch vụ hỗ trợ bao gồm các dịch vụ mạng, thanh toán tiền và giao hàng, nên khi xảy ra vụ việc xâm phạm quyền không loại trừ có các trách nhiệm liên đới từ các khâu trên, ngoài trách nhiệm chính của người chủ bán hàng trực tuyến. Do những bên cung cấp dịch vụ thanh toán cũng như dịch vụ giao hàng không khác với những dịch vụ tương tự trong thương mại truyền thống, nên trách nhiệm liên đới chỉ còn  tập trung vào bên cung cấp dịch vụ thông tin phục vụ cho giao dịch bán hàng. Nghĩa là trách nhiệm liên đới trong vi phạm có thể thuộc về nhà cung cấp dịch vụ internet (ISP).

 

   2/ Xâm phạm quyền liên quan đến hàng hóa hiện vật:

 

Trường hợp này là hành vi bán hàng giả, hàng xâm phạm quyền SHCN thông qua TMĐT mà hàng hóa vi phạm bị phát hiện hoặc bắt giữ. Viêc xử lý vi phạmtrong trường hợp này sẽ được tiến hành như trong TM thông thường, tuy nhiên sẽ có điểm khác trong việc xác định đối tượng vi phạm và địa điểm vi phạm.

 

i/ Xác định đối tượng vi phạm:

 

Đây là một điểm mới trong việc xác định đối tượng vi phạm trong TMĐT so với TMTT, trong thực tế có một số cách để thực hiện.

-          Xác định qua internet tên xác thực của đối tượng vi phạm

-          Xác định gián tiếp thông tin đối tượng vi phạm thông qua internet, ví dụ như qua người điều hành website, chủ các tên miền liên quan…

-          Xác định thông tin người bán hàng thông qua việc mua các hàng mẫu

-          Xác định thông tin qua nhà dịch vụ mạng (ISP)

 

ii/ Xác định thẩm quyền:

 

Nguyên tắc xác định thẩm quyền xử lý là thuộc về cơ quan thực thi nơi hành vi xâm phạm được thực hiện. Để xác định địa điểm này, phải phân biệt vụ việc xâm phạm liên quan đến hàng hóa thực hay hàng hóa chỉ được thông tin giao dịch trên mạng. Trong trường hợp hàng hóa thực thì nguyên tắc xác định nơi vi phạm là địa điểm hàng vi phạm được cất giữ hoặc bị bắt giữ giống như nguyên tắc được áp dụng trong TM thông thường. Trong trường hợp bên khiếu nại mua hàng để làm bằng chứng vi phạm thì địa điểm vi phạm được xác định là nơi hàng được giao và do đó cũng coi là nơi hàng được bán. Trong một số trường hợp, nếu các bên nêu rõ trong hợp đồng mua bán một địa điểm cụ thể được coi là nơi thực hiện việc bán hàng. Nếu việc xâm phạm quyền liên quan đến các thông tin giao dịch trên mạng, thì cũng có thể coi địa điểm đặt máy chủ của website là nơi thực hiện hành vi vi phạm.

 

   3/ Xâm phạm quyền SHCN liên quan đến các thông tin giao dịch trên mạng

 

  Các hành vi xâm phạm này bao gồm:

 

i/ Sử dụng các nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại được bảo hộ của người khác như một từ khóa tra cứu: ví dụ:  liên kêt một nhãn hiệu của người khác vào thành một trong các từ khóa tra cứu trang web của mình để lôi kéo  khách hàng và lợi dụng uy tín của nhãn hiệu đó.

 

Hành vi này trong thực tiễn nhiều nước được coi là hành vi xâm phạm quyền đối với các đối tượng nêu trên. Chủ nhãn hiệu cũng có thể thực hiện quyền của mình  bằng cách kiện nhà cung cấp dịch vụ mạng (ISP). Tại Việt Nam chưa có quy định cụ thể liên quan đến hành vi này trong Luật SHTT, tuy nhiên Thông tư Liên tịch 07/2012 của Bộ TT-TT và Bộ VHTT& DL quy đinh trách nhiệm Nhà cung cấp mạng yêu cầu ngươi sử dụng dịch vụ cam kết không có các hành vi như trên.

 

ii/ Sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại của người khác thành một tên gọi, dấu hiệu, hình trang trí hoặc nội dung quảng cáo trên cửa hàng trực tuyến của mình.

Việc xử lý trường hợp này còn có sự khác nhau trong thực tiễn của các nước và phụ thuộc vào các trường hợp cụ thể. Cơ quan thực thi thường xem xét, đánh giá việc sử dụng như vậy có trung thực và đúng cách hay không, có gây nhầm lẫn cho công chúng và có gây thiệt hại cho nhãn hiệu hay không để đưa ra kết luận. Tuy nhiên thông thường các ISP phải có các động thái cần thiết để giải quyết khi có các khiếu nại như vậy.

     

iii/ Trách nhiệm liên đới của Nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP)

 

Trách nhiệm liên đới của ISP trong các vụ xâm phạm quyền SHCN là vấn đề  nóng đang được các nhà làm luật khảo sát và nghiên cứu, do đó chưa có một chuẩn mực cụ thể để xác định trách nhiệm liên đới của nhà mạng trong các vụ xâm phạm này mà chỉ giải quyết theo từng vụ viêc cụ thể.

 

   Chiếm đoạt tên miền.

      

1/ “Chiếm đoạt tên miền” (Cybersquatting) là hành vi sử dụng nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại của người khác làm tên miền của mình để thực hiện việc kinh doanh cùng sản phẩm, dịch vụ.

Do tên miền trên internet đóng một vai trò hết sức quan trọng, không chỉ là phương tiện giao dịch, quảng bá cho một nhãn hiệu tiếp cận hữu hiệu thị trường trong nước mà còn giúp thực hiện thương mại sản phẩm/dịch vụ trên quy mô toàn cầu. Tuy nhiên, do các cơ quan đăng ký nhãn hiệu và tên miền thường khác nhau nên nhiều kẻ trục lợi đã tiến hành đăng ký các tên miền trùng hoặc tương tự với các nhãn hiệu đã đăng ký hoặc nhãn hiệu nổi tiếng, các chỉ dẫn địa lý hoặc tên thương mại của người khác để trục lợi.

 

2/  Xử lý hành vi chiếm đoạt tên miền

 

Hành vi này chủ yếu nhằm mục đích lợi dụng uy tín của các nhãn hiệu hoặc các đối tượng SHTT đang được bảo hộ hoặc gạ bán lại cho các chủ nhãn hiệu. Do đó, luật của hầu hết các nước coi đây là hành vi xâm phạm quyền SHTT.

 

Luật SHTT Việt Nam cũng xác định

Các bài viết khác